I. Duyên phận còn dài
của một bài thơ cực ngắn
Trên thi đàn thế giới có nhiều áng thơ sống mãi
với thời gian và trở thành bất hủ. Chỉ riêng ở Pháp xin đề cập một bài thơ của
Félix Arvers (1806 – 1850) đã lừng lẫy gần 2 thế kỷ, vẫn được truyền tụng qua
bao thế hệ tận bây giờ mà hễ đã học tiếng Pháp ai cũng thuộc lòng. Bài thơ như
sau:
-------------
UN SECRET
------------
-----------------
Ở nước ta, bài thơ tình một chiều đau khổ ấy được
truyền tụng rộng rãi trong giới tiếp thụ nền văn hóa Pháp, không biết cơ man
nào thơ dịch,thơ phỏng, thơ họa ở thế kỉ trước. Duy chỉ có một bản dịch của
Khái Hưng trụ vững nhất – sau một thời gian dài được mặc nhiên công nhận là hay
nhất và thi giới lúc bấy giờ cũng kết thúc cuộc luận bàn tranh cãi này. Xin
trích dẫn bài dịch chuẩn mực này, thâu tóm nhất, hay nhất bằng thể thơ lục bát
nhuần nhuyễn mượt mà:
“Lòng ta
chôn một khối tình
Tình trong
giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt
vọng, nỗi thảm sầu
Mà người
gieo nặng như hầu không hay...
Hỡi ơi người đó ta đây
Hỡi ơi người đó ta đây
Sao ta thui
thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi
trọn đường trần
Chuyện
riêng đâu dám một lần hé môi
Người dù
ngọc nói hoa cười
Nhìn ta
như thể nhìn người không quen.”
Đường đời
rộn rã bước chân
Ngờ đâu lại
đạp lên trên khối tình
Một niềm
tiết liệt đoan trinh 
Xem thơ
nào biết có mình ở trong
                                                                                                     
KHÁI HƯNG
Vậy mà trên thi đàn thế
giới, mấy trăm năm nay có một đoản khúc cực ngắn chỉ gồm 6,7 từ tưởng giản dị,
mộc mạc mà không biết bao nhiêu nhà thơ đã dịch, đến nay hình như chưa có bài
nào đứng vững trong lòng người hâm mộ.
Chỉ riêng trong phạm vi hiểu biết hạn hẹp của kẻ
viết bài này – khu trú trong một số bài thơ dịch của các tác giả Anh – Pháp – Mỹ
và Việt Nam đã có hàng trăm bài, rất khác nhau mở ra quanh bài Haikư Nhật Bản
nói trên của Basho đã từng khơi dậy và mở đầu một thể thơ thịnh hành từ giưa thế
kỷ 17. Xin phép chỉ trích ra vài chục bài làm cứ liệu.
Bài nguyên tác:
furu
ike ya
kawazu
tobikomu
mizu
no oto
ao
cũ
ếch
nhảy vào
tiếng
nước
Ngữ nghĩa bài thơ khá rõ ràng, không màu mè, ẩn
dụ. Vậy mà mãi đến nay theo những thông tin ít ỏi chúng tôi nhận được, riêng phần
dịch tiếng Pháp đã có hàng trăm bản dịch khác nhau hoặc tương tự. Các bản dịch
của các tác giả Anh, Mỹ cũng có rất nhiều, khó lòng mà minh định.
Điều thú vị nhất là chính quốc của bài thơ này
có 2 bản mà 1 trong số đó vừa công bố trên đài truyền hình Nhật Bản NHK
(26/7/2013) của tác giả Nobuyuku Yuasa lại thêm vào nguyên tác bài thơ 327 năm
tuổi đời nhiều công án mới khiến thi đàn Haikư thêm nhiều điều phải bàn về phiến
khúc “Ao cũ”.
Bản dịch
tiếng Việt:
1.  Ao cũ
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao
               
                    NHẬT CHIÊU
2.  Ao cũ
ếch nhảy vào
tiếng nước
                                           ĐINH NHẬT HẠNH
3.  Con ếch
nhảy xuống ao tù
tiếng nước té
                                                 
THÁI BÁ TÂN
 4.  Cái
ao cũ im lìm
Một con ếch nhảy vào ao
Xao động, lại im lìm
             
                               PHÙNG
HOÀI NGỌC
| 
   
TIẾNG ANH 
 | 
  
   
TIẾNG VIỆT * 
 | 
 
| 
   
Ancient pond 
Frog jumps in 
sound of the water 
Patrice Donegan 
 | 
  
   
Ao cổ 
ếch nhảy vào 
tiếng nước 
 | 
 
| 
   
The old pond 
a frog jumps in 
the sound of water 
Jackie Hardy 
 | 
  
   
Ao cũ 
con ếch nhảy vào 
tiếng nước 
 | 
 
| 
   
The old pond 
a frog jumps in 
sound of water 
Robert Haas 
 | 
  
   
Cái ao cũ 
con ếch nhảy vào 
tiếng nước 
 | 
 
| 
   
An old silent pond 
a frog jumped into the
  pond 
splash! Silence again 
Hardy Bond 
 | 
  
   
Một cái ao cũ lặng im 
con ếch (đã) nhảy vào
  trong đó 
“Phọt”! Yên tĩnh trở lại 
 | 
 
| 
   
There is the old pond! 
Lo, into it jumps a
  frog 
Hark, water’s music 
John Brian  
 | 
  
   
Đây cái ao cũ! 
nhìn kìa! Con ếch nhảy vào 
nghe kìa! Khúc nhạc nước 
 | 
 
| 
   
There is the silent
  old pond 
a mirror of ancient
  palm 
a frog – leaps – in
  splash 
Dion O’donold 
 | 
  
   
Đây cái ao già nua yên tĩnh 
mặt gương soi của gốc cọ cổ xưa 
một con ếch – nhảy – nước tóe 
 | 
 
| 
   
Old pond 
frog leaping 
splash 
Corman 
 | 
  
   
Ao cũ 
ếch đang nhảy 
tiếng nước tóe 
 | 
 
| 
   
Antic pond 
frantic frog jumps in 
gigiantic sound 
Bernard Lionel Einbond 
 | 
  
   
Ao cổ xưa 
ếch điên cuồng nhảy
  vào 
tiếng nước vang to thế! 
 | 
 
| 
   
Old pond 
leap-splash 
a frog 
Lucien Stryck 
 | 
  
   
Ao cũ 
tiếng nước nhảy tóe nước 
một con ếch 
 | 
 
| 
   
Old pond 
a frog jumps in 
water’s sound 
William Higginson 
 | 
  
   
Ao cũ 
một con ếch nhảy vào 
tiếng nước 
 | 
 
| 
   
     *
  thơ tạm dịch của Đinh Nhật Hạnh 
 | 
 |
| 
   
2 BẢN DỊCH ANH NGỮ CỦA 2 TÁC GIẢ NHẬT BẢN * 
 | 
 |
| 
   
An old pond 
a frog dives in 
water sound 
 | 
  
   
Một cái ao cũ 
con ếch nhảy vào 
tiếng nước 
 | 
 
| 
   
At the age-old pond 
A frog leaps into the
  water 
a deep resonance 
Nobuyuka Yuasa 
(NHK 29/06/2013) 
 | 
  
   
Tại cái ao cổ xưa 
một con ếch nhảy vào
  nước 
âm hưởng thẳm sâu 
 | 
 
| 
   
        
  * thơ tạm dịch của Đinh Nhật Hạnh 
 | 
 |
Tiếng nước tóe lên từ một vật thể sống nhỏ nhoi
nhảy vào mặt ao chỉ nghe – nhìn được trong nháy mắt liệu có âm hưởng thẳm sâu
như lời dịch vừa nêu? Bản dịch tiếng Anh này xuất xứ từ hiệp hội Haikư Toàn Quốc
Nhật Bản của tác giả Nhật có danh tính rõ ràng được quảng bá nền Haikư Nhật Bản
ngày 29/06/2013 là bản mới nhất tôi nhận được của chính người Nhật dịch từ bản
gốc. Tôi cứ băn khoăn mãi về độ tin cậy chính xác của bản dịch này và chợt nghĩ
phải chăng người dịch thơ có quyền bổ sung nhận thức rất riêng của mình, xem
như một cách thẩm bình cái gì đó nằm ngoài cốt chữ, như tiếp nhận ánh hào quang
tỏa ngầm vốn có nhưng chưa lộ sáng bởi sự che chắn của ngôn từ bản gốc. Ta chưa rõ cảm nhận của dịch giả Nhật Bản
NOBOYUKU YUASA trên đài Truyền Hình NHK vừa rồi có tương đồng với nhà văn Nhật Chiêu
khi hình như cả hai cùng nhận ra rằng chú ếch nhảy vào ao kia không chỉ gọn ghẽ
vài giây rồi tắt lịm mà sau đó làn nước trong ao vẫn còn xao động, xao động đến
bây giờ, mãi mãi… Nhiều câu hỏi, nhiều công án cứ ẩn hiện lấp lánh, vương đọng
trong 6 từ tưởng như đơn giản mà chắc hẳn nhiều thế hệ sau này còn lắm băn
khoăn.
Nhiều câu hỏi chưa được giải đáp khiến cho người
dịch tự trọng khó lòng ngừng lại ở ngữ nghĩa tưởng như đơn giản, có thể sờ bắt
được như một lát cắt thời gian và không gian. Ao cũ hay ao xưa! Ếch nhảy vào
khác hẳn nhảy ra và trạng thái nước ao thủa ấy trong hay đục, bề mặt có phủ kín
bèo tây, bèo tấm để có khả năng tạo nên tiếng “tõm” phọt lên sắc gọn khi con ếch
nhảy vào để rồi lặng lẽ như chưa có gì xảy ra? Cứ hình dung một chiếc ao vườn
Nhật Bản trên truyền hình: nhỏ thôi, như một vũng nước trong xanh giữa khu vườn
tỉa tót, có tảng đá rêu xanh biểu thị núi non, sông hồ hùng vĩ. Nó không tùy tiện
như bất cứ ao nào ở xứ khác. Một con ếch nhảy vào – chỉ có một. Mặt ao sẽ vỡ ra
vài giây, phát ra một tiếng phọt sắc gọn đồng thời với vài tia nước bắn ra tạo
làn sóng lăn tăn đón chào khách để rồi khép ngay lại phẳng lặng như xưa.
Câu thơ – hay bài thơ “Ao cũ” già hơn cụ Bành Tổ
của Basho – vẫn luôn luôn tươi trẻ, ngày càng tạo thêm dòng suy ngẫm vượt khỏi
khuôn khổ và tầm mức hạn hẹp ban đầu. Ngày càng hiển thị rõ hơn nhiều câu hỏi:
Làn nước ao lúc ấy đục hay trong? Cư dân trong ao thuở ấy nhiều hay chỉ mình cụ
ếch đầu tiên nhảy vào đơn chiếc và cứ cho là chiếc ao nhỏ ấy vẫn tồn tại trong
thiên nhiên Nhật Bản, thì mai này ra sao, liệu sẽ có còn hay sẽ bị san bằng,
tan biến vào một không gian công nghiệp hóa khổng lồ, khó mà cưỡng lại! Như hiện
trạng ở nước Việt Nam  
mình.
                                                                                     
Ngõ Bằng lăng làng Tám 
                                                                              
                  (2008 - 2013)
                                                                                                 
 Đinh Nhật Hạnh
  KỲ SAU:
II.
Lăng kính đa
diện của khúc Haikư “Ao Cũ”