Trong buổi sinh hoạt thường kỳ ngày 26/3/2011, nhà văn Lê Đăng Hoan bận đi công tác xa. Từ nơi công tác, nhà văn LĐH đã gửi bài bình tập thơ “Song đào” của nhà thơ Đinh Nhật Hạnh qua emai cho chủ nhiệm Lê Thị Bình. Nhà thơ Lê Thị Bình đã in ra làm nhiều bản gửi đến tận tay mọi người có mặt trong buổi sinh hoạt để cùng đọc và chia sẻ cảm nhận của nhà văn LĐH về sự sâu sắc của “lão nhà thơ Đinh Nhật Hạnh” (chữ dùng của nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy về nt.ĐNH).
Haikư Việt ngữ, xin trân trong được giới thiệu tới bạn bè bài viết của nhà văn Lê Đăng Hoan.
Một tâm hồn thơ Haikư Việt thuần khiết
(Cảm nghĩ
khi đọc tập thơ “Song đào” của nhà thơ Đinh Nhật hạnh)
Lê Đăng Hoan
Nhiều nhà nghiên cứu về thơ Haikư Nhật Bản vẫn nói rằng đây là loại thơ
rất được phổ biến ở Nhật, người Nhật từ dân ít hiểu biết đến các nhà trí trức
cao đều làm và đọc nó (có lẽ giống như thơ lục bát của Việt Nam chăng?). Thế
nhưng thơ Haikư sang Việt Nam thì nói thật, cho đến nay, vẫn rất kén người viết
và người đọc. Có lẽ do tính “mở”của nó chăng. Người viết cứ mở ra, còn người đọc
cứ thế mà suy đoán ý nghĩa theo cách hiểu của mình. Nó làm cho người đọc không
còn có tính thụ động theo ý của người viết nữa. Đó là loại thơ hòa đồng giữa
người đọc người viết. Nếu người đọc, chỉ đọc để chơi hoặc chỉ lấy thơ để thư
giãn khi đầu óc căng thẳng, thì rất khó tiếp cận với loái thơ này. Mà tâm lý
phần lớn người đọc cứ muốn cái gì cũng phải rõ ràng dễ hiểu, không phải suy đoán
quá nhiều mới hiểu ý của người viết muốn nói gì. Tôi thuộc về người đọc loại
này. Tôi vốn rất không ưa những ca sĩ hát không rõ lời dù giọng véo
von!
Tôi đã đọc một số thơ Haikư của một số tác giả Việt Nam, gọi là Haikư
Việt, nói chung cũng đã có ít nhiều khái niệm về nó, bên cạnh rất nhiều bài khi
đọc thấy hợp với suy nghí tâm tư của mình, thật sự thích thú. nhưng
cũng có bài trừu tường quá, kiệm lời qua, “mở” quá, tôi không biết đâu là
ý của tác giả đâu là ý cần diễn giải của bài thơ.
Nhưng hôm qua nhận được tập thơ “Song đào”, mà thật ra mấy lâu nay tôi đã
tiếp xúc với Haikư Vịệt của nhà thơ Đinh Nhật Hạnh, thì cũng là loại thơ Haikư,
nhưng tự nhiên tôi lại thấy có cảm nhận khác hẳn. Cũng “mở”, cũng “kịệm lời”,
nhưng chỉ cần đọc kỹ một chút là tôi đã hiểu được tác giả muốn nói gì rồi.
Cái “mở” trong
thơ của tác giả lại là cái “gợi mở” bắt nguồn từ nhận thức thực tế để đưa ta vào
sâu lắng của tình cảm.
Ta hãy xem cái
gợi mở khi nghe “một tiếng chim gù”:
Chim gù
trưa
bóng tre
trùm nỗi nhớ,
mẹ chân
trần nắng mưa
Một tiếng chim
gù ban trưa làm ta nhớ đến người mẹ đầu đội trời, chân đạp đất giữa nắng
mưa!!!
Hay “một tiếng
mõ” chiều sương làm ta nhớ cảnh quê hương “đường làng thụt móng chân trâu”
:
Chiều
sương
mõ trâu về
lốc cốc
đường
thôn
Cảnh yên bình ở thôn quê được thể hiện bằng nhiều hình ảnh khác nhau, là
đàn gà con xúm xít bên mẹ, một tiếng gà gáy lúc ban trưa, là cảnh đám trẻ tắm
lội giữa dòng sông, hay cảnh một góc chợ quê xốn xang kẻ mua người bán, nhưng
cảnh mà tôi cảm thấy thật sự yên bình là những con bò vàng. con trâu gậm cỏ ven
đê, thỉnh thoảng cái đuôi cứ tung lên đập xuống đuổi muỗi, và vài con sáo, con
cò đậu trên lưng trâu. Mỗi lần về quê, hay được xem một hình ảnh giống như thế
tôi thật sự thấy quê hương mình thật sự thanh bình, yên ả. Thì đây, bài thơ rất
Haikư này như đồng cảm với suy nghĩ của tôi:
Bóng
đa,
lim
dim
bò vàng vẫy
đuôi xua muỗi.
Thôi thì
chữ “lim dim” ở đây tác giả có hơi mập mờ đi nữa thì sự mập mờ này cũng
đáng yêu. Cây đa “lim dim” hay con bò “lim dim” thì vẫn là một hình ảnh của đồng
quê thật sự yên bình..
Trong bài sau
đây thì ta mới biết rõ ràng hơn, đó là con “bò lim dim”. Cái “lim dim”
của con bò no cỏ như một nét nhấn của quê hương tác giả, để ta nhớ lại ngày xưa
chăn bò, cắt cỏ.
Chiều vàng
no cỏ-
bò lim
dim
nghe muỗi
gẩy đàn.
Cuộc đời là cả
một chuỗi dài của hạnh phúc và đáng yêu. Nhưng cuộc đời cũng đầy nước mắt, tráo
trở và lừa lọc, đen bạc. Bươn trải trong cuộc đời này con người phải biết “gạn
đục khơi trong”, chắt lọc lấy những giọt nước trong giữa những những dòng nước
đục.
Sương
sa
bụi đời
trăm ngã
Liệu còn
giọt trong .
Giữa trần gian
này còn nhiều bụi lắm. Phải chăng trong hai tiếng “trần gian” đã chứa đựng “bụi”
rồi. “Trần” chẳng là “bụi” đó sao! Giọt sương sáng trong lành, rơi vào trong cái
không gian bụi bặm ấy, thì làm sao mà trong cho được. Nhưng cái sứ mệnh thiêng
liêng của hạt sương là hút vào mình những hạt bụi nhỏ, để mình bẩn đi, nhưng thế
gian này đỡ đục. Cái nghĩa “mình chịu đục cho đời trong” là ở đó.
Thế gian đã
bụi bặm lại tráo trở. Sự tráo trở này làm cho khối kẻ quá tin mà sa bẩy như con
chim vành khuyên kia, thật đang thương:
Vành
khuyên!
bay chi vào
phố
bẩy đời
dăng dăng
Hay như con
chào mào kia:
Chào mào lẻ
đôi-
bám nan
lồng
khóc chồng
sập bẫy.
Thấy cảnh
chồng đã sập bẫy rồi, mà vẫn không biết tránh xa “cái bẫy” ấy đi.
Tình thương của cái giống chào mào làm cho bao loài khác đáng để làm gương.
Nhưng gương vẫn sáng mà đời vẫn đục. Những cái bẩy khác đang dăng sẵn ở đâu đó
để bắt con chim dám đến “khóc chồng”, như đám trẻ con thường dùng chim con để
bắt luôn chim mẹ!!!
Cứ đọc những
bài có nội dung tương tự như vậy trong tập thơ này, tôi càng thấy tác giả thật
tinh tế, thật nhạy cảm, nhìn một biết mười, mở cho ta cái nhìn gần gũi, thân
thiện hơn với Haikư.
Trong cái trần
gian ấy, thật đầy cám dỗ, đầy hiểm họa. Chỉ cần sơ sẩy một chút thôi, hôm nay ta
đang là “vương chủ” nhưng biết đâu ngày mai ta đã là “kẻ hành khất”
Mèo
vờn
chim non há
miệng
tưởng mẹ,
đòi ăn.
Cái nhầm này
thật sự tai hại. Tại sao tác giả lại có thể nắm bắt được cái tích tắc hết sức
nhạy cảm đó, nếu tác giả chưa bao giờ bị lừa lọc, tráo trở.
Hay bài thơ
sau đây thì quả thật đọc lên ta cười ra nước mắt:
Khỉ không
thành người-
người
thường hóa
khỉ!
Cuộc đời hơn
tám mươi tuổi của tác giả chứng kiến biết bao nhiêu sự thủy chung, trung thành.
Tác giả đã được ngắm biết bao mùa bằng lăng, bao nhiêu lần “ một giò lan nở,
thơm trời đất” bao nhiêu tiếng ve, tiếng tu hú gọi hè về, chứng kiến bao
nhiêu cảnh “khúc lở khúc bồi, dòng sông, dòng đời”. Vì vậy mà tác giả
không lạ lẫm gì với sự mất còn, không lạ gì họa phúc.
Họa phúc
trùm thiên hạ
hôm nay
ai,
mai
ai?
Vâng , cái họa
cái phúc như “ thằng ăn trộm” ta không biết hôm nay nó sẽ vào nhà ai?
Thơ Haikư Nhật
nói nhiều đến phong cảnh, trong thơ của Đinh Nhật Hạnh phong cảnh được ông mô tả
qua “tiếng ve. Rụt rè, mở Hạ”; “cánh chuồn, giỡn nắng,”; “chú dế ,bờ đê, gợi
tình”; “cú cầm camh”; “chim khách mách gì”. Nhưng tôi lại thích những loài
hoa mà tác giả đưa vào trong thơ mình. Tac giả đã đưa rất nhiều loài hoa vào thơ
như : bằng lăng, hoa đào, nhài, sen, mơ, mai, liếu, hoa sữa,
cúc...Nhưng có lẽ tác giả thích nhất hai loài hoa, đó là hoa lan và hoa đào. Ta
hãy say sưa cùng tác giả:
“Một giò
lan nở
thơm
trời
đất”
Tác giả còn có
cả một bài thơ riêng nói về một loại hoa lan gọi là “Lan trần mộng”, loài
hoa mà trong nhà của nhà thơ năm nào cũng nở, loài hoa tượng trưng cho tình yêu
và sự cao thượng.
Còn
hoa đào thì :
“Một bóng
hoa đào
Thắp bừng
ngõ nhỏ-
ấm chiều ba
muơi”
Ta cứ tưởng
tượng ta đang đi từ trong ngõ ra phố, bỗng có một người nào đó đưa về một cành
hoa đào từ ngoài ngõ đi vào. Cành đào rực rỡ, hồng tươi làm ta lóa mắt như một
vầng sáng, một làn hơi ấm làm bừng một góc phố nhỏ, đưa hơi ấm cho chiều cuối
nắm.
Tôi không muốn
đi quá sâu vào cuộc đời riêng, nhất là những mất mát của tác giả, nhưng rồi khi
đọc những bài Haikư này tôi cứ phải nghĩ đến. Không biết có phải tôi quá tưởng
tượng hay biết sự mất mát của tác giả mà cứ có suy diễn theo ý mình hay không
nhưng dù sao những ý thơ trong những bài như:
Cú
rúc
gai
người
đêm
quạnh
Hoặc:
Bến
xưa
con đò vẫn
đợi
mòn
trăng;
Và đây
nữa:
Nhớ về chim
nhé
tán bàng
nhà
ta
làm cho tôi
cái cảm giác mất mát không gì bù đắp được khi nửa đêm thức giấc, một tiếng cú
kêu, nhìn lại bên mình trơ trọi, quạnh quẽ đến gai người. Sực nhớ rằng, cái nửa
bên kia của mình không còn nữa để mà thao thức, thương cảm mà không biết nói
cùng ai.
Gần cuối cuộc đời, con người ấy vẫn chờ vẫn đợi, chờ đợi đến mỏi mòn, đến
“mòn trăng” tuy vẫn biết rằng chờ là để mà chờ thế thôi chứ, con đò kia, con
chim kia có bao giờ trở về nữa đâu.
Trên cuộc đời này có cái mất mát nào to lớn, đau đớn đến thế nữa!
.
Tôi kết thúc bài này này bằng một bài thơ Haikư sau:
Tầm
xuân,
theo suốt
cuộc đời
đường hoa
Suốt cuộc đời
nhà thơ Đinh Nhật Hạnh làm việc và yêu đời không biết mệt mỏi. Gần
85 tuổi vẫn luôn giữ bên mình “nụ tầm xuân”, gạt đi tất cả mất mát, gạt bên lề
cuộc đời tất cả mọi lo âu, ưu phiền, để sống, để làm thơ và để tin vào con
người.
Đinh Nhật Hạnh
là một nhà thơ thực thụ, ông đã xuất bản hàng chục tập thơ gồm các thể loại khác
nhau. Mấy năm nay ông tạm gác tất cả những loại thơ khác để tập trung vào thơ
Haikư Việt. Tôi chưa thấy ai say sưa, nhiệt tình, nhiệt tình đến mức ‘si mê’ thơ
Haikư như nhà thơ Đinh Nhật Hạnh. Cũng chính nhờ ông mà Haikư đã đến với rất
nhiều người , trong đó có cả tôi. Tôi chưa phải là người thích lắm loại thơ này,
nhưng có lẽ tôi đang theo ông từng bước để bước vào cái rộng lớn của Haikư mà
ông đang say mê.
Tâm hồn lạc quan và say mê ấy đang truyền sang cho lớp trẻ và những người
học trò của nhà thơ.
Ta chúc
cho nhà thơ, nhà Haikư Việt Đinh Nhật Hạnh ngày càng dồi dào tiềm lực về sức
khỏe và lòng ham mê để xây cho Haikư Việt trở thành một dấu ấn trong thơ ca Việt
Nam .
Hồ Hoàn Kiếm ngày mưa phùn
(15-3-2011)
LĐH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét